Skip to main content

Đạo Trading - Chương 4 - Quản trị vốn

 

Chương 4

QUẢN LÝ VỐN

               

"Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của nó không nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó không nằm ở sự logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích". - Peter F. Druker.

               

  Trước tiên, bạn xem kỹ lại khuyến cáo về rủi ro của sàn giao dịch mà bạn đăng ký mở tài khoản và tự hỏi tại sao sàn giao dịch  nào cũng khuyến cáo về rủi ro?

  Mức độ nguy hiểm của nghề trading đã được trình bày ở phần trước nên chúng ta cần chú trọng đến công tác quản lý để tồn tại trong nghề này mà cụ thể ở đây là quản lý vốnquản lý giao dịch.

  Khi nói đến quản lý, chúng ta thông thường nghĩ đến nhiệm vụ quản lý các đối tượng bên ngoài (tổ chức, khách hàng, doanh nghiệp,…) nhưng đối với trading thì quan trọng nhất là kiểm soát mọi hành vi của chính mình. Nếu chế ngự được các cảm xúc phức tạp trong nội tâm thì chúng ta cũng sẽ làm tốt nhiệm vụ quản lý này và giải pháp vận dụng thiền vippassana cũng đã được trình bày chi tiết ở phần trước.

  Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần có những qui định quản lý rõ ràng về các vấn đề này để theo đó mà thực hiện. Cũng lưu ý là các qui định quản lý vốn cần chặt chẽ về một số điểm mang tính phòng vệ nhưng cũng cần linh hoạt để tối đa hóa lợi nhuận. Mặt khác, chiến lược quản lý vốn và giao dịch nên mang tính bảo thủ ở giai đoạn tập sự khi mà trader chưa có kinh nghiệm và cần nới lỏng ra để khai thác cơ hội thị trường khi trader đã vững vàng về tâm lý và đã có nhiều kinh nghiệm giao dịch.

 

1. QUẢN LÝ VỐN

  Ở phần trước, tôi đã trình bày khá đầy đủ về đặc điểm của nghề trading và sự khó khăn của nó nên bạn có thể tự xét mình có phù hợp với nghề hay không. Nếu bạn thực sự yêu thích công việc này nhưng hoàn cảnh và điều kiện tài chính chưa cho phép thì bạn có thể chọn cách tiếp cận từ từ, chỉ xem đây là nghề tay trái chứ không nên dành trọn thời gian cho nó (fulltime). Cũng lưu ý rằng trading là một công việc kinh doanh thực sự nên sự thua lỗ trong vài năm đầu là không thể tránh khỏi nên bạn cần đặt trọng tâm vào quản lý vốn để hạn chế thua lỗ đến mức thấp nhất có thể và đây là điều kiện tiên quyết để tiếp tục với nghề. 

  Thông thường, một trader tập sự chỉ dành quan tâm cho công việc phân tích dự báo thị trường và ưa thích giao dịch nhiều mà xem nhẹ công tác quản lý vốn. Sau một thời gian trải nghiệm thực tế với nhiều thua lỗ, anh ta buộc phải quan tâm hơn đến quản lý vốn và bắt đầu tìm hiểu và  sao chép các nguyên tắc quản lý vốn từ lý thuyết hay từ người khác. Thế rồi, quá trình giao dịch khắc nghiệt sẽ tiếp tục giúp mỗi người điều chỉnh dần các nguyên tắc cho phù hợp với bản tánh và hoàn cảnh của mình, và cuối cùng sẽ đúc kết ra một phương cách quản lý vốn riêng biệt cho mình chứa đựng cả các yếu tố tâm lý cá nhân phía sau. 

 




  Ở đây tôi chỉ trình bày kinh nghiệm quản lý vốn của mình và chỉ mang tính chất tham khảo cho bạn đọc mà thôi.

 

1.1.   Ngưỡng vốn tâm lý

  Đối với các thị trường cho phép sử dụng đòn bẩy cao đến mức độ hàng trăm lần như thị trường ngoại hối, hàng hóa... thì đòn bẩy có thể làm cho vốn trong tài khoản bạn gia tăng đột biến nên nó có sức cám dỗ rất mạnh. Bạn dễ bị sa vào “cạm bẫy” giao dịch khối lượng lớn trong khi kỹ năng giao dịch và năng lực kiểm soát cảm xúc của bạn chưa được thuần thục tương xứng. Điều này xảy ra khá phổ biến và sẽ rất nguy hiểm khi trader bắt đầu thua trở lại; nó diễn ra rất nhanh và khốc liệt do mức độ ”sát thương” nặng nề của đòn bẩy. 

  Để tránh khỏi cái vòng xoáy “ăn thua” với thị trường, tôi nghĩ rằng làm quen với khái niệm “ngưỡng vốn” sẽ hữu ích với bạn: 

-        Ngưỡng thuần thục: số vốn tài khoản được duy trì trong một phạm vi phù hợp (giả sử từ 1000$-1500$) tương xứng với khả năng chịu đựng rủi ro (tức là kiểm soát cảm xúc) và kỹ năng giao dịch của trader tại thời điểm hiện tại.

 

-        Ngưỡng tuyệt vọng: khi số vốn sụt giảm qua ngưỡng này, trader bắt đầu hành động bất chấp, vứt bỏ, dễ làm cháy tài khoản (giả sử $500). Trader cần tạm nghỉ giao dịch đến khi ổn định tâm lý trở lại và nạp bổ sung vốn để tăng về “ngưỡng thuần thục”. 

 

-        Ngưỡng khinh suất: khi số vốn vượt quá ngưỡng này, trader bắt đầu hành động khinh suất, hào phóng, phung phí khoản tiền lãi (giả sử $2000). Trường hợp này trader nên rút tiền ra khỏi tài khoản giao dịch để trả vốn về “ngưỡng thuần thục”. Hơn nữa, khoản tiền rút ra có ý nghĩa ghi nhận kết quả làm việc của bạn, tương tự cảm giác nhận lương cuối tháng hay nhận phần thưởng động viên nào đó.

  Như vậy, theo tôi, trader không nên chuyển toàn bộ vốn vào tài khoản giao dịch mà cần duy trì một quỹ dự phòng để điều tiết “mức vốn” trong tài khoản sao cho phù hợp với kinh nghiệm và khả năng chịu sức ép tâm lý của mình trong từng giai đoạn. Các ngưỡng vốn sẽ được nâng lên theo thời gian khi mà khả năng kiểm soát cảm xúc tốt lên và kỹ năng giao dịch ngày càng thành thạo hơn. Bạn có thể cho rằng phương cách này khá bảo thủ, không khai thác được sức mạnh của đồng vốn để sinh lãi kép; tuy nhiên, tôi đề xuất phương cách này là dựa trên phương diện tâm lý mà tầm quan trọng của nó mang tính quyết định trong trading.

 

1.2.  Điều tiết vốn

              Trading là một nghề mang tính rủi ro cao và có thể làm bạn mất vốn nhanh chóng nên đòi hỏi sự thận trọng suy xét về lượng vốn bỏ vào thị trường. Bạn nên xác định tỉ lệ vốn nhàn rỗi dành cho trading là bao nhiêu trong toàn bộ tài sản hiện có của bạn. 

  Sau khi đã nắm rõ nguyên lý thị trường và giao dịch giả định (demo) thành thạo, bạn hãy chia số vốn nhàn rỗi thành nhiều phần, rồi chuyển một phần vào tài khoản giao dịch với nhận thức là số tiền này sẽ mất hết trong giai đoạn tập sự. Bởi xem đây là học phí nên cách thông minh nhất là phải trả càng ít càng tốt. Ở giai đoạn này, bạn đang thực tập quan sát bản thân và luyện tập kỹ năng giao dịch cơ bản. 

  Khi tài khoản bắt đầu đứng vững thì bạn nên chuyển vào tài khoản một số vốn vừa đủ cho mục đích kiếm tiền tiêu vặt (kiếm vài chục $ chẳng hạn), nghĩa là chuyển từ mục đích từ học hỏi sang kiếm tiền. Bạn nên giao dịch cho đến khi “chai lì” với mức tiền thắng thua ở giai đoạn này. Cũng nên ghi nhớ rằng nếu giữ số vốn lớn quá mức cần thiết trong tài khoản giao dịch thì tâm lý bạn dễ trở nên “hào phóng” với thị trường. 

 


 

 

  Sau một thời gian, bạn nâng số tiền trong tài khoản lên mức cảm thấy giao dịch thoải mái, đáp ứng được mức chi phí sinh hoạt thì bắt đầu rút tiền và giữ ở mức đó ổn định. Khi năng lực chế ngự cảm xúc đã vững vàng đối với một mức vốn nào đó thì sẽ xuất hiện khuynh hướng tự nhiên đẩy mức vốn lên cao hơn. Đây là khuynh hướng thực sự xuất phát từ khả năng bên trong bạn chứ không phải tham muốn làm giàu hay thể hiện gì đó ra bên ngoài.

 

                         Ở mỗi ngưỡng vốn, bạn có thể tham khảo cách thức đi tiền như sau:

 

-        Căn cứ vào ngưỡng vốn thuần thục, bạn xác định độ lớn của một lệnh cơ bản với mức cắt lỗ tối đa không vượt quá 10% tài khoản.

 

-        Sử dụng lệnh cơ bản này  làm cơ sở cho việc mua bán. Bạn có thể thay đổi số lượng lệnh này linh hoạt, tiến thoái tùy ứng với nhịp sóng của thị trường. Số lượng lệnh cơ bản đang mở cùng lúc không nên vượt quá 3 lệnh (khi chưa quen). Chỉ nhồi thêm lệnh khi mức độ rủi ro của lệnh trước đó đã giảm đi nhiều hoặc không còn nữa (tức là lệnh cắt lỗ đã dời về mức hòa vốn.) 

 

-        Khác với trường hợp dùng một lệnh cỡ lớn cứng nhắc, bạn có thể kiểm soát rủi ro hợp lý hơn bằng cách thay đổi số lượng lệnh cơ bản. Từ đó, các chiến thuật nhồi lệnh, nhả lệnh, dời lệnh sẽ trở lên linh hoạt, phù hợp với tình huống thị trường.

 

-        Khi chưa đạt được lợi nhuận ổn định thì bạn không nên vội vã tăng độ lớn của lệnh cơ bản chỉ vì đang thắng liên tiếp. Điều này sẽ tạo ra mức dao động tài khoản lớn, dễ đưa đến giao dịch kiểu sát phạt và mất kiểm soát  bởi nội tâm bạn chưa có được sự tĩnh lặng tương ứng.

 

-        Ở trình độ cao, bạn có thể tối đa hóa lợi nhuận bằng cách sử dụng chính lợi nhuận “nở ra” của các lệnh đang nắm giữ để gia tăng vị thế (nhồi lệnh, tố lệnh) trong trường hợp các con sóng lớn và dĩ nhiên là phần lớn các lệnh trước đó đã được giảm thiểu rủi ro hoặc đưa về hòa vốn.

 

  Kỹ năng nhồi lệnh chính là cách tấn công của bạn, nó chỉ đạt được khi đã thành thạo. Một chia sẻ về cách “đi tiền” của VietCurrency mà tôi thấy là xác đáng qua trải nghiệm của mình: “Xác suất mỗi lần trade không quan trọng bằng cách “đi tiền.” Anh hiểu cách đi tiền là nghĩa gì không? Có nghĩa là đối với tôi lúc mới nhảy vào mà thắng thua không quan trọng vì tôi cut loss rất mau. Nhiều khi nhảy vào, mất 5 pips là tôi cho đi liền. Thành ra, nếu tính theo phần trăm tôi nghĩ là thấp lắm. Nhưng ngược lại, nếu vào xong mà thấy lên chừng 20 pips và market đúng như ý mình đoán thì tôi nhảy vào thêm với số lượng 10 lần hơn số lượng lần đầu. Cái đó gọi là đi tiền đó. Trading, các anh phải nhớ, không phải là SỐ LẦN mình thắng, mà là SỐ TIỀN mình thắng.”

 

1.3.   Đường vốn (equity curve)

 

 

 

 

 

              Về lý thuyết, người ta hướng tới xây dựng một đường vốn tăng dần như đồ thị ở trên, tuy nhiên, theo tôi thì điều này chỉ là hình ảnh “lý tưởng” đối với hầu hết trader.  Một sơ suất giao dịch khi thiếu tỉnh táo có thể làm đường cong này gãy đổ giữa chừng và hậu quả của nó có thể làm trader mất niềm tin hoặc giao dịch nóng nảy dẫn đến cháy tài khoản. 

  Mặt khác, khi giao dịch với số vốn tăng dần (do giữ lại tiền lãi trong tài khoản) dẫn tới “phình to” kích cỡ của lệnh giao dịch quá nhanh có thể  gây mất kiểm soát khi mà tâm thức trader chưa đủ sự tĩnh lặng tương ứng. 

  Sau khi xem xét thêm phương diện tâm lý đằng sau vấn đề quản lý vốn, tôi không còn quan tâm đến đường vốn như truyền thống mà chuyển sang phương thức rút tiền mỗi khi tài khoản vượt qua ngưỡng khinh suất hay nói cách khác, quản lý theo dạng đường vốn “điện tâm đồ” như ở dưới. Cách này giúp bạn không bị vướng mắc vào một hình ảnh lý tưởng và giữ được thăng bằng cảm xúc (hình ảnh để minh họa cho ý tưởng này chứ không phải để lưu giữ).

 

 

Đường vốn dạng điện tâm đồ

     Giả sử bạn duy trì mức vốn tài khoản ổn định quanh mức $1000, lệnh cơ bản là 0.1 lot và rút tiền ngay khi tài khoản tăng trên 50%. Sau khi rút tiền, bạn có khuynh hướng giao dịch chặt chẽ trở lại để bảo vệ tài khoản và do đó, bạn thường sẽ giữ vững được ở mức này. Sau nhiều lần rút tiền và đã quen thuộc “chai lì” với mức giao dịch này, bạn tự nhiên cảm thấy thoải mái hơn khi chuyển lên giao dịch ở mức cao hơn (ví dụ $2000) và khi đó bạn có thể chấp nhận mức dao động lớn hơn. Đường vốn kiểu này thực ra không cần xây dựng và không chấp chứa ham muốn gì trong đó.

  Ngoài ra, một vấn đề khác của quản lý vốn là sự mâu thuẫn giữa áp dụng kỷ luật chặt chẽ nhưng vẫn có sự linh hoạt cần thiết để theo kịp thị trường. Thí dụ, bạn có thể đặt ra nguyên tắc là giới hạn rủi ro tối đa mỗi ngày là $200 nhưng rủi ro đối với một giao dịch cụ thể trong ngày thì thay đổi được. Có thể nói tuân thủ kỷ luật mà vẫn giữ được sự linh hoạt là thách thức rất lớn, giúp tối đa hóa lợi nhuận nhưng vẫn không phòng thủ được.

  Khi đạt đến mức độ thuần thục rồi thì có lẽ sự linh hoạt sẽ là chủ đạo. “George Soros - thần tượng của currency trader - đã từng nói một câu rất nổi tiếng. Đó là: WHEN YOU’RE

RIGHT, YOU CAN’T HAVE ENOUGH. Đại ý của câu đó là khi bạn đoán đúng hướng đi rùi, bỏ vào bao nhiêu cũng vẫn chưa thấy đủ. Đây là cung cách của một trader nhà nghề. Họ biết tiến thoái nhịp nhàng với thị trường. Họ không như mấy ông thầy giáo lẩm cẩm, cứng ngắc. Chỉ nhất quyết với một con số nào đó thôi. Trading rất là flexible (tạm dịch là co giãn). Khi biết mình thắng thì phải tấp vào tối đa. Cơ hội không đến lần thứ hai. Cho nên khi cờ tới tay thì phải phất. Phải “clean out” đối thủ của mình cho sạch sẽ. Để lấy đó làm vốn. Lỡ mai mốt mình có bị clean lại thì còn vốn mà phục thù. Đối với tôi thương trường là chiến trường. Traders phải biết tiến thoái nhịp nhàng với thị trường và co giãn theo nó. Đó là cái gọi là money management của tôi. Bạn hỏi 10 người khác thì sẽ có 10 câu hỏi khác nhau.” - VietCurrency

2. QUẢN LÝ GIAO DỊCH

 

              Daily FX đã thực hiện một nghiên cứu thống kê để tìm hiểu dạng sai lầm giao dịch nào là  phổ biến nhất của trader. Họ đã khảo sát hơn 43 triệu giao dịch từ Q2, 2014  đến Q1, 2015 đối với 15 cặp tiền phổ thông nhất và phát hiện ra rằng hơn 50% số lượng giao dịch của trader kết thúc có lãi, như cặp EURUSD có tỉ lệ đến 61%. 


 

  Nếu hơn 50% tổng số giao dịch có lợi nhuận thì tại sao hầu hết trader lại mất vốn? Đồ thị dưới cho thấy tất cả:


 

 

  Như vậy, mặc dù số lệnh thắng nhiều hơn nhưng trader vẫn mất vốn vì họ bị mất nhiều tiền cho các giao dịch thua hơn là kiếm được tiền từ các giao dịch thắng.  Cụ thể như cặp EURUSD, tuy số lệnh thắng chiếm 61% nhưng số pips kiếm được trung bình mỗi giao dịch chỉ là 48 pips, trong khi số pips trung bình của  mỗi giao dịch thua là 83 pips

  Đến đây, chúng ta liên hệ lại với phát biểu nổi tiếng của G. Soros: “ Đúng hay sai không quan trọng, cái chính là kiếm được bao nhiêu khi đúng và mất bao nhiêu khi sai” (It's not whether you're right or wrong that's important, but how much money you make when you're right and how much you lose when you're wrong). Một phát biểu tưởng chừng không hợp logic nhưng lại hoàn toàn chính xác! Dĩ nhiên, nếu bạn vừa có khả năng đạt được tỉ lệ thắng thua tốt và vừa có số pips thắng trung bình cao hơn thì thật tuyệt vời. 

  Lý do đơn giản của vấn đề này là bởi tâm lý con người đã gây khó khăn cho công việc trading. Trader có thể phán đoán đúng biến động thị trường (mặt lý trí) nhưng anh ta không đủ tỉnh thức để cho sự sợ hãi (mặt cảm xúc) khống chế nên thường hành động ngược lại với lời khuyên của G. Soros ở trên. Thế nên, việc quản lý vốn và giao dịch cần xét đến thực tế này, đó là vấn đề tâm lý thúc đẩy phía sau. 

 

***

  Quản lý giao dịch cũng cần bao gồm cả 2 phương diện là phòng thủtấn công. Về phương diện tấn công thì đó là kỹ năng nhồi lệnh, nhả lệnh, dời lệnh, quản lý đa lệnh theo xu hướng. Phần trước tôi có mô tả sơ bộ về cơ cấu vào lệnh nhưng nói chung thì kỹ năng tấn công này đòi hỏi trải nghiệm thực tế nhiều và năng lực chế ngự cảm xúc của mỗi người.

                        Ở đây chỉ nhấn mạnh vào phương diện phòng thủ và quản lý một lệnh giao dịch.

  Thứ nhất, chúng ta cần nói về lệnh thoát (exit). Nó là lệnh chờ (stop order) được dùng khi bạn muốn thoát ra khỏi thị trường.

-        Khi vào 1 lệnh mua bán, bạn cần đặt thêm 1 lệnh chờ để thoát ra theo hướng ngược lại. Lệnh này đóng vai trò như là “cầu chì” bảo vệ tài khoản của bạn nên được gọi là lệnh cắt lỗ (stop loss). Nó giới hạn mức thua lỗ tối đa của vị thế vừa được mở nếu như bạn nhận định sai thị trường. 

-        Khi giá chạy đủ xa, bạn có thể dời nó về mức hòa vốn để giữ cho vị thế không bị thua lỗ, gọi là lệnh giữ hòa (break-even stop).

-        Khi giá đã hoàn tất các nhịp sóng hồi, bạn có thể dời nó dọc theo xu hướng để bảo vệ từng phần lợi nhuận, gọi là lệnh giữ lãi (protective stop).

-        Tại vùng giá mục tiêu, bạn có thể dời lệnh áp sát theo từng nến. Lúc đó, nó giữ vai trò của lệnh chốt lãi (take profit).

 

 Khi giá chưa chạy đủ xa (tùy bối cảnh) thì tránh vội vã dời lệnh cắt về điểm hòa vốn bởi vì dao động của thị trường có thể quét qua nó.   

  Thứ hai, xác định rủi ro trước khi vào lệnh. Xác định vị trí đặt lệnh cắt lỗ ban đầu (initial stop): Bạn cần nhớ rằng lệnh cắt lỗ giúp bảo vệ tài khoản của bạn nhưng chính nó cũng cần được bảo vệ. Lệnh cắt lỗ thường được “núp” sau các mức giá quan trọng như là mức cản trên/dưới, đường xu hướng, mức cao/thấp sóng, mức cao/thấp nến. Các mức giá này được chọn lựa tùy thuộc vào khung thời gian giao dịch, cấp độ sóng giao dịch (sóng chính hay sóng phụ).    Nếu vị trí đặt lệnh cắt lỗ ban đầu quá xa và khoản rủi ro tính toán quá lớn so với mức bình thường, bạn có thể giảm khối lượng lệnh giao dịch hoặc kiên nhẫn chờ đợi cơ hội khác tốt hơn. Thực ra, việc đánh giá rủi ro này còn liên quan đến yếu tố xác suất khi phán đoán hướng đi của thị trường và không thể áp dụng một cách máy móc.

 

              Thứ ba, giảm rủi ro, giữ lợi nhuận. Hành động dời lệnh cắt lỗ thuận chiều theo sóng hay xu hướng là cách giúp giảm dần rủi ro và giữ lại từng phần lợi nhuận của giao dịch. Lưu ý là không bao giờ được dời lệnh cắt lỗ theo hướng ngược lại hay hủy bỏ nó.

-        Mức hòa vốn là mức tâm lý thường rất quan trọng đối với hầu hết mọi người. Khi dời lệnh cắt lỗ về mức này, bạn có cảm giác “buông được gánh nặng” nên hành động này rất hấp dẫn. Do đó, bạn cần tỉnh táo để đưa được lệnh về hòa vốn một cách hợp lý, dựa trên các dấu hiệu rõ ràng chứ không phải do sợ hãi hay lo lắng. Nên nhớ là cần giữ khoảng cách đủ rộng cho thị trường “hít thở” khi chuyển động. 

 

-        Có thể chủ động dời lệnh thoát theo hướng đi của giá để giảm rủi ro khi thấy giá đi vào vùng trở lực và xuất hiện tín hiệu bất thường ngược hướng hoặc mẫu hình kéo dài quá lâu (dễ bị thất bại) hoặc khi sắp ra tin tức quan trọng. Lệnh thoát nên được dịch chuyển tuần tự theo các nhịp sóng, đỉnh/đáy nến hoặc đặt phía sau các mức giá then chốt mà thị trường mới tạo ra.

 

  Thứ tư, chốt lãi. Nếu ban đầu bạn xác định chỉ lướt hết một nhịp sóng thì cần chủ động thoát lệnh khi giá gần tới cản để tránh nhịp sóng hồi; còn nếu quyết định đu bám theo trọn con sóng thì bạn phải chấp nhận trải qua những nhịp sóng hồi. Sự thiếu dứt khoát có thể dẫn đến hành động thoát lệnh ngay cuối sóng hồi làm lợi nhuận biến mất. Thực ra, không có công thức cụ thể nào để chốt lãi tối ưu cho mọi tình huống nhưng tôi nêu vài tình huống sau để bạn xem xét có tiếp tục giữ lệnh hay không:

-        Nếu mức cản trước đó bị phá vỡ nhanh và mạnh, hướng đi rõ rệt, khoảng chạy dài và thoáng, con sóng thường sẽ phát triển ổn định và giữ được lâu.

-        Nếu giá vừa thoát ly khỏi vùng tích lũy lâu dài (năng lượng sóng dồi dào), thì xu hướng thường sẽ mạnh và cách đi vững chãi; còn khi đã tiêu tán phần lớn năng lượng (suy thoái) thì cần tích lũy lại và khó đi xa thêm được.

-        Khi sóng tạm dừng mà xuất hiện tín hiệu củng cố cho sóng (cạm bẫy, bắt đáy/đỉnh thất bại) trong khi các mức dự phóng, mức cản cứng còn tương đối xa thì khả năng thị trường vẫn tiếp tục hướng đi của nó.

 

                         Dưới đây là một ví dụ minh họa cách dời lệnh giao dịch:

 


 

   

  Sóng (1) là con sóng giảm tiêu biểu, giá tạo mức thấp sóng (a) rồi lùi lại để hình thành mức cao sóng (b). Bạn đợi giá phá mức thấp sóng (a) rồi mới dời lệnh cắt xuống, ngay trên mức cao sóng (b) vừa hình thành. Tương tự, sẽ dời lệnh xuống (d) khi đáy (c) bị phá và tiếp tục cho đến cuối sóng. Mặt khác, khi giá tiến vào vùng giá mục tiêu thì bạn có thể chủ động chốt lãi hay dời lệnh áp sát đuôi nến, từng nến một. 

  Khi đưa lệnh về vị trí (b), lệnh của bạn sẽ được bảo vệ vì các lệnh chờ bán của thị trường được đặt nhiều ở phía dưới. Nếu vị trí (b) bị vượt qua thì có nghĩa là đã có sự thay đổi về tính chất và con sóng đã chuyển sang giai đoạn khác (trừ trường hợp dao động quá mạnh do tin tức, phá vỡ giả tạo).

                         Tương tự đối với sóng 2 (sóng tăng).

  Một điều quan trọng khác là hành động chốt lãi vội vàng cũng cần được xem là một dạng thiệt hại. Nếu bạn có thói quen “ăn non” thì bạn đang giao dịch thực tế với tỉ lệ R:R không tốt mặc dù bạn lên kế hoạch với một tỉ lệ rất tốt (xem ở phần dưới). Bậc thầy Amos Hostetter đã cảnh báo từ rất lâu: “Đóng một vị thế tốt quá sớm là sự rủi ro lớn.” (The big risk is closing a good position too soon.) 

 

              Bên cạnh đó là bạn cần thấu hiểu về hành động cắt lỗ. Ngay khi vào lệnh, chúng ta đã đối diện với khả năng phán đoán sai lầm nên cần phải giới hạn mức thua lỗ bằng hành động cắt lỗ. Hành động cắt lỗ mang tính chất sống còn và cần phải trở thành nghĩa vụ bắt buộc của mỗi trader ngay khi phát hiện mình sai lầm. Để giúp bạn nhận thức rõ ràng hơn, tôi xin ghi lại đây một vài lời khuyên thuyết phục nhất của Vietcurrency về vấn đề này:

  “Các bác phải biết rằng trading luôn luôn là một sự lựa chọn. Những lựa chọn đó có khi đúng và có khi sai, và có khi rất dễ. Ngược lại, có khi rất khó. Nó làm cho chúng ta suy nghĩ rất nhiều. Tuy nhiên, mặc dầu có suy nghĩ nát óc, sự lựa chọn vẫn không thay đổi bản chất. Đó là part of the game. Người trader giỏi không phải là người trade hoài mà không thua, nhưng là người biết giữ vốn. A good trading plan starts out w/ a good defense. Defense có nghĩa là phòng thủ. Một trong những điều cực kỳ khó làm trong trading là cut loss. Mất tiền ai mà chịu chứ.

Ai cũng nghĩ như thế. Nhưng câu hỏi không phải là mất hôm nay, nhưng là sẽ mất bao nhiêu. "Mất bao nhiêu" in a down trend thì không ai biết được. Điều mà chúng ta chỉ biết là NÓ SẼ MẤT NHIỀU HƠN HIỆN TẠI. Chỉ cần bấy nhiêu thôi là đủ cho mình bỏ chạy. Người phân tích thị trường giỏi hay dở, kinh nghiệm hay không rất dễ biết. Khi thị trường lên thì các bác sẽ thấy trên các websites on internet người ta lôi đủ mọi loại chart ra vẽ lung tung. Liệng vào đó một đống indicators để quan trọng hóa cái chart. 

       Nhưng khi market rớt thì họ phân vân, không dám make the call. Người ta CHẾT trong trading vì cái phân vân này, chứ không phải người ta không đủ trí thông minh để hiểu rằng con tàu đã bắt đầu chìm, và mình nên chạy. Điều này họ biết chứ. Nhưng họ vẫn còn tiếc nuối, còn hy vọng. Hope = hy vọng là điều tối kỵ trong trading. Tôi đã thường nói với các bác rằng TRADING IS A MIND GAME. Các bác đọc xong bài viết này, xét lại thâm tâm của chính mình để thấy rõ lý do chính mà mình chưa dám cut loss có phải vì NUỐI TIẾC & HY VỌNG không, hay là các bác thật sự tin vào một rebound của market dựa vào những cái FACTS KHÔNG THỂ CHỐI cãi được? Nếu bài phân tích của mình gồm những sự kiện (facts) không thể chối cãi được thì mình nên tin. Bằng không đừng nên để cảm tình che lấp một phân tích thuần túy dựa vào những sự kiện mà không thể chối cãi được. Trading thật ra chỉ có bao nhiêu đó thôi. Chỉ có Ta với Ta, và những dằn vặt của tâm tư. Trong những lúc này thế giới đó nó cô đơn lắm.  

       Sẽ có một ngày anh nhận thức đuợc rằng phân vân cũng không làm gì đuợc khá hơn, mà chỉ làm mình phân tâm . Anh sẽ trở nên chai đá trong việc thắng thua . Anh coi nó như một công việc như bao công việc khác vì anh hiểu rằng đây không phải là lần đầu mà anh cut loss, sẽ còn nhiều lần nữa. Chỉ mong rằng mỗi lần anh cut loss thì số tiền đó nhỏ hơn số tiền anh vừa thắng.  Một ngày nào đó cái loss của anh cũng bình thuờng như anh đi mua ly cà phê buổi sáng . Khi anh đạt đến đó thì market tự nhiên không còn "dễ sợ" nữa . Cái thua và thắng đi song song với nhau, và anh chấp nhận hết cả hai như anh chấp nhận rằng cuộc sống có vui lẫn buồn . Khi đạt đến đó thì anh mới thấy rõ cái TA của mình, thấy cái sợ, cái tham, và những điều nên và không nên làm trong trading. Hiện tuợng cutloss ngay đáy xảy ra rất thuờng, và tại sao trên chart có một vùng mà người ta gọi là REACTIONARY POINT. Đó là vùng mà investors chịu hết nổi. Sức mạnh tâm lý đè nặng trong đầu họ làm cho họ phải bán trong lúc thấp nhất . 

    Thị truờng lúc đó thật ra rất tốt để mua, nhưng vì sức ép của tâm lý, nỗi lo âu về số tiền ngày càng cạn dần cho nên thay vì double down (mua thêm) để cân bằng ra thì nguời ta đem bán. Cái bán này không làm lợi gì trên nguyên tắc đầu tư, nhưng nó là giảm đi cái áp lực đang đè nặng trên nguời của investors . Chính xác hơn, họ bán để feel good, chứ không cần bán. Đây là vấn đề tâm lý mà các traders nhà nghề biết đuợc và dùng để làm lợi điểm cho mình. Chính vì thế mới có danh từ gọi là reactionary point. Reaction là phản ứng. Reactionary là tính từ .

Điều mà tôi muốn nhắc nhở các bác newbies về khả năng bảo vệ vốn của cutting loss. Đó là một chiến thuật đấy. Trong chiến tranh, nhiều khi người ta cần lui quân để bảo toàn lực lượng.

Lui quân luôn luôn đi chung với tốn hao. Cutting loss cũng thế. Nó thường đi chung với sứt mẻ của vốn. Cho nên ít ai muốn làm. Nhưng đó là liều thuốc đắng mà ai trong chúng ta cũng phải uống để thành một trader thực thụ.”

  “ Dần dần các anh thấy rằng cutloss là một hành động tối cần thiết để giữ vốn, và cũng là một việc làm CỰC KỲ khó khăn của một người traders. Người ta không ai thích cut loss cả.

Họ nuôi mãi hy vọng. Thậm chí khi nói đến cutting loss là người quạu liền. Nhưng đó là bề trái của trading. Không học cutting loss thì ĐỪNG NÊN TRADE. Thói thường của đời là thấy stocks xuống thì mong cho nó lên. Cutting loss thì sợ mất nó. Hôm nay stock rớt xuống còn bao nhiêu đó. Cutting loss ngay bây giờ thì anh biết chắc chắn là anh còn bấy nhiêu đấy. Anh bình an trong nhức buốt của cái thua. Nhưng điều anh còn là mạng sống. Cuộc chơi vẫn còn đối với anh. Không cut loss ngồi đó liếm hoài vết thương. Mỗi khi stock rớt xuống thêm thì vốn càng teo lại hơn nữa. Thói đời thường là lúc cần cut ngay thì người ta chần chừ. Nhưng đến lúc quá mệt mỏi vì áp lực tâm lý hay đến lúc cạn kiệt thì họ mới cut. Lúc đó lại là lúc nên mua, vì đó lại là bottom. Đời nó có cái quái đản thế đó. Và dường như nó chỉ xảy ra với mình mà thôi !!!.Tâm trạng này ai cũng có qua hết. Không ít thì nhiều. Chú nào nói chưa có là xạo, hay chưa nếm đủ hương vị "ngọt ngào" của trading. Bởi thế tại sao người ta đặt một số % nhất định khi bước vào. Trật là ra không hối tiếc. Làm một vài lần sẽ quen thôi. Quen rồi, nhớ lại lúc xưa sao mình ngu dễ sợ. Cứ ôm hoài một niềm đau nhức buốt của trading.”

  “Cutloss không phải là LỖ, mà là bảo tồn vốn. Những gì đã lỗ thì đã lỗ rồi. Ngồi trong đó không làm cho các anh giảm lỗ thêm. Cái sợ lớn nhất của người ta về cut loss là cut xong thì nó lại lên. Nhưng muốn lên thì còn phải tùy thuộc vào trend. Trend bây giờ là gì? Nếu là down trend thì hy vọng nó lên sẽ bao cao? Nếu là down trend thì có nghĩa gì? Nghĩa là stocks vẫn còn xuống phải không? Mà nếu nó còn xuống thì anh đứng đó làm gì? Trading nó rất kỵ HY VỌNG, nhất là một ảo vọng xoay chiều của một strong trend. Tôi biết hầu hết các anh trong đây vẫn còn học hai chữ quan trọng này. Và các anh sẽ học mãi cho đến ngày thành thạo thôi. Không học xong hai chữ này thì 1) các anh sẽ rời khỏi thị trường một đi không trở lại hoặc 2) châm vốn thêm vào mãi để nuôi những traders nhà nghề.” - VietCurrency

 

3. BỘ BA: MỨC RỦI RO - MỨC THƯỞNG - XÁC SUẤT

 

  Người ta phân biệt thành nhiều loại rủi ro trong lãnh vực tài chính nhưng có thể hiểu rủi ro là sự sai biệt giữa lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng. Khả năng xảy ra sự sai biệt này chính là xác suất và bản chất rủi ro là sự không chắc chắn (uncertainty). Thời gian cũng là một yếu tố rủi ro bởi việc nắm giữ vị thế trong một thị trường càng lâu thì trader càng phải đối diện với nhiều sự kiện bất ngờ.

  Trong trading chúng ta cần lưu ý đến 3 yếu tố liên quan chặt chẽ với nhau: mức rủi ro, mức thưởng và xác suất. Mức rủi ro ở đây được hiểu với nghĩa hẹp là khoản tiền thua lỗ nếu thị trường diễn ra ngược với nhận định, còn mức thưởng là khoản lãi tiềm năng khi thị trường diễn ra đúng nhận định. Khi giao dịch thực tế  thì mức rủi ro và mức thưởng được xác định khá dễ dàng trong khi xác suất thì không thể tính toán được. Xác suất của mỗi tình huống thị trường được xác định tùy thuộc vào khả năng cảm nhận phân tích của mỗi cá nhân nhưng lại đóng vai trò then chốt trong bộ ba này, bởi nó biểu thị tính khả thi của phương án giao dịch.

  Tính khả thi ở đây nên hiểu khác đi một chút, nó có tính chất động. Lấy ví dụ bạn lên kế hoạch mua vào khi giá bứt phá mạnh khỏi cản thì khả năng phát triển thành con sóng  sẽ cao (khả năng xảy ra) nhưng mức cắt lỗ sẽ lớn (tính khả thi về tài chính không cao) và bạn sẽ e ngại nếu phương án giao dịch này thất bại. Tuy nhiên, nếu khi hiện tượng bứt phá xảy ra rõ ràng và bạn nhanh chóng dời lệnh áp sát điểm mua vào (phù hợp với tình huống) thì tính khả thi về mặt tài chính sẽ tốt lên rất nhiều.

 

3.1. Mức rủi ro

  Rủi ro lớn nhất là dạng rủi ro mang tính tâm lý xuất phát từ những hành động phản ứng bốc đồng thiếu suy xét  của trader (do ảo tưởng tham sân si) như đã trình bày ở phần trước. Ở đây chỉ đề cập các dạng rủi ro mang tính chuyên môn từ bên ngoài.

-        Rủi ro kỹ thuật: do lỗi kỹ thuật của sàn giao dịch, nhà cái, mạng internet, máy tính, thao tác sai… hoặc bị trượt giá do dao động mạnh, mất cơ hội vào lệnh. Yếu tố rủi ro dạng này thỉnh thoảng xảy ra, không nghiêm trọng lắm nếu bạn luôn vào lệnh cắt cùng lúc với lệnh mua bán.

 

-        Rủi ro thời gian: lệnh giao dịch lưu lại trong thị trường càng lâu thì càng phải đối diện các biến động bất thường rất khó lường. Nếu có thể thì bạn nên giảm thời gian lưu lại trong thị trường xuống khi tình huống cho phép để giảm rủi ro (dĩ nhiên là phải tôn trọng khung thời gian giao dịch)

 

-        Rủi ro biến động:  là khoản lỗ có thể xảy ra khi thị trường biến động khác với kỳ vọng của bạn (do nhận định sai, cạm bẫy).  Yếu tố rủi ro này cần phải được xác định trước mỗi giao dịch và phải được kiểm soát chặt chẽ. Từ rủi ro dùng ở đây chủ yếu để chỉ dạng rủi ro này.

  Cách xác định mức rủi ro biến động: Sau khi đã có tín hiệu giao dịch, xác định mức giá quan trọng để đặt lệnh cắt lỗ. Đo khoảng cách từ mức giá dự tính vào lệnh đến vị trí đặt lệnh cắt lỗ để tính ra số điểm rủi ro (pips) và khoản tiền có thể mất đi sẽ là số pips x khối lượng giao dịch. Lưu ý là không bao giờ được tháo bỏ lệnh cắt lỗ sau khi đã đặt.

 


  

3.2.  Mức thưởng

  Khi đặt lệnh giao dịch, bạn kỳ vọng sẽ thu được một khoản lợi nhuận dự kiến từ giao dịch đó, gọi là mức thưởng (reward). Tuy nhiên, mức thưởng cần phải được xem xét trong sự tương quan với mức rủi ro để có thể đánh giá tình huống thị trường đó có xứng đáng để giao dịch không và phải được kết hợp với xác suất để thấy nó không là ảo tưởng. Cũng có khi bạn vào lệnh mà không nghĩ đến mức thưởng kỳ vọng nào cả, nhưng hành động này có thể là thiếu thận trọng. Thực tế thì chốt được mức thưởng như dự kiến là điều ít người làm được.

  Chúng ta đã biết rằng nếu thực hiện được “Hãy cắt lỗ nhanh; hãy để lãi chạy tiếp” (cut your loss short, let your profit run)  thì vẫn thắng ngay cả khi số lệnh giao dịch thua nhiều hơn số giao dịch thắng. Khi thị trường có xu hướng mạnh thì tuy xác định vùng giá mục tiêu trước mỗi giao dịch, bạn vẫn nên giữ giao dịch mở (không đặt sẵn lệnh chốt lãi) và theo dõi sát để đóng lệnh một cách linh hoạt. bởi giá có thể xuyên qua một loạt mức cản.

  Cách xác định mức thưởng: lần lượt xác định cấp độ sóng dự kiến giao dịch, chiến thuật lướt nhanh hay nắm giữ theo sóng, rồi xác định mức then chốt/mức dự phóng để chốt lãi. Đo khoảng cách từ mức giá dự tính vào lệnh đến mức dự tính chốt lãi để tính ra số điểm thưởng (pips) và lợi nhuận kỳ vọng (khoản lãi) sẽ là số pips x khối lượng giao dịch. 

 

3.3.  Xác suất

  Yếu tố “xác suất” ở đây được hiểu là con số ước tính mức độ xảy ra của một kịch bản nào đó của thị trường. Đây là sự đánh giá riêng của mỗi cá nhân nên thị trường có người mua kẻ bán. Xác suất có thể là 0% (tức là không xảy ra) hay 100% (tức là chắc chắn xảy ra), và mức càng cao thì khả năng xảy ra của kịch bản đó càng cao.

  Bản thân chuyển động thị trường vốn không có xác suất, nó chỉ là diễn biến do duyên hợp và luôn luôn đúng. Xác suất chỉ xuất hiện khi người ta áp đặt phương pháp giao dịch, kinh nghiệm, đánh giá của họ để phán đoán thị trường. Ở cùng một thời điểm, mỗi cá nhân sẽ đánh giá chiều hướng biến động tiếp theo của thị trường với xác suất xảy ra khác nhau; người có kinh nghiệm thường phán đoán chính xác hơn người tập sự. Nếu trung bình bạn có khả năng phán đoán đúng khoảng 70% thì đã là quá tốt, nhưng tốt hơn là nên chuẩn bị phương án dự phòng cho phần 30% còn lại.

  Người ta cũng gọi trading là trò chơi xác suất (trading is a probability game) cho thấy mức độ quan trọng của xác xuất. Xác suất là yếu tố không thể đo lường tính toán như là mức rủi ro và mức thưởng mà nó hoàn toàn do cảm nhận cá nhân của bạn. Và quan trọng là bạn nên chờ các dấu hiệu rõ ràng để giao dịch bởi khi nhiều người cùng thấy thì xác suất xảy ra của sự việc sẽ cao hơn (tôi không nói là mọi người đều thấy.)

  Thế nên, trading thành công không có công thức nào cả, nó tùy thuộc nhiều vào cảm nhận và trải nghiệm của mỗi cá nhân.

                         Một ví dụ về xác suất và rủi ro.

 


 

  

3.4. Quan hệ giữa bộ ba

 

Khi xem xét vào lệnh, bạn không nên tách biệt xác suất khỏi mức rủi ro và mức thưởng, bởi đây là bộ ba có quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình ra quyết định. 

Xuất phát từ bản tánh con người (lòng tham) nên khi mua bán chúng ta thường có thói quen trả giá (bargain) để mong đạt được giá tốt nhất (cao nhất khi bán, thấp nhất khi mua).

Điều này cũng xảy ra trong trading, dẫn đến khuynh hướng muốn mua đúng đáy, bán đúng đỉnh, nghĩa là khi sai thì mất tiền ít, thắng thì được nhiều, tỉ lệ R:R cao (mức thưởng: mức rủi ro). Trên thực tế, những người ưa thích bắt đáy hay đoán đỉnh thường gặp khó khăn bởi họ đã xem nhẹ yếu tố xác suất, hay nói đùa là họ thích ăn “bánh vẽ”.

  Trước khi quyết định tham gia một giao dịch, bạn nên quan tâm đầy đủ đến bộ ba: mức rủi ro – mức thưởng - xác suất. Nếu tỉ lệ R:R của một phương án rất tốt nhưng xác suất để nó trở thành hiện thực (tức là tính khả thi của nó) lại quá thấp thì vẫn đưa đến thất bại; hay nói cách khác, R:R khi đó chỉ mang tính hình thức. Một người chỉ quan tâm đến tỉ lệ R:R chính là đang đặt trọng tâm vào giá với nhận thức là tỉ lệ này càng tốt thì khả năng sinh lợi càng lớn; anh ta có thể đã bị ảnh hưởng của lòng tham. Ngược lại, nếu người đó không thể đặt lệnh mua bán vì R:R không cao nhưng xác suất xảy ra lại rất cao (như tình huống bứt phá khỏi mẫu hình) thì có thể đó là biểu hiện của nỗi sợ hãi. 

  Nếu chuyển trọng tâm ưu tiên sang yếu tố xác suất xảy ra của phương án thì chúng ta vẫn có thể chấp nhận tỉ lệ R:R hợp lý để thực hiện một giao dịch thành công và sẽ kiên nhẫn hơn khi chờ đợi một tình huống giao dịch tốt. Hãy tập nghĩ về xác suất trước khi nghĩ về giá!

  Khó khăn lớn nhất là sự cảm nhận yếu tố xác suất của mỗi tình huống. Nó phụ thuộc rất nhiều vào trải nghiệm và sự tỉnh thức của trader mặc dù về mặt toán học, người ta có thể thống kê được tỉ lệ thành công của mỗi dạng mẫu hình (tham khảo Encyclopedia of Chart Patterns của Thomas N. Bulkowski.)

  Nếu thị trường đã hình thành một tình huống có xác suất thành công cao, bạn có thể vào lệnh với mức giá phải chăng, tỉ lệ R:R>1 vẫn ổn. Chúng ta cần phải chấp nhận có sự đánh đổi giữa xác suất và tỉ lệ R:R.

  Thực tế thì trong quá trình chuyển động, thị trường làm thay đổi liên tục bộ ba yếu tố mức rủi ro, mức thưởng, xác suất so với ước tính ban đầu của chúng ta trước khi vào lệnh. Mặt khác, trong quá trình quản lý giao dịch, chúng ta cũng chủ động thay đổi tỉ lệ R:R bằng cách di chuyển các lệnh thoát (exit), lệnh chốt lãi.

  Nhìn rộng hơn thì mức rủi ro và mức thưởng chỉ là 2 yếu tố thuộc về mặt giá. Chúng ta cần phải quan tâm nhiều hơn đến mặt thời gian xảy ra và tính khả thi (xác suất). Nếu không chú trọng đến mặt thời gian thì chúng ta dễ mất kiên nhẫn và nếu không chú trọng đến tính khả thi thì chúng ta không thể đu bám theo xu hướng, rồi ưa thích bắt đáy hay giao dịch với tín hiệu yếu. Các mặt thời gian, giá, tính khả thi là cần thiết để xác định “tọa độ” xảy ra của một sự việc cũng chính là trật tự “thời, vị, tính” trong Dịch Lý. Sự kiên nhẫn chờ đợi và tôn trọng chuyển động thị trường cũng chính là điều kiện cần thiết trong giao dịch tùy duyên thuận pháp.

 

***

 

Đọc thêm

 

GIAO DỊCH QUÁ ĐỘ (OVERTRADING)

 

(VietCurrency)

 

 

 


 

 

                         Những dấu hiệu của overtrading 

 

1.                  Chỉ sau vài lần thắng, bạn trở nên quá tự tin. Thay vì bỏ tí thời giờ ra phân tích, bạn chỉ muốn trade liên tục. Hơi men chiến thắng làm bạn cảm thấy mình trở nên vô địch. Mọi luật lệ về trading mà bạn đã học, hay thu nhặt được qua kinh nghiệm cá nhân đều được quên hết.

2.                  Trong trường hợp thứ nhì thì bạn vừa thua vài trades. Bạn cảm thấy mình cần phải gỡ, và bạn sẵn sàng nhảy vào bất cứ cái trade nào trước mắt miễn sau gỡ lại số tiền vừa thua thật nhanh. Nói cách khác rằng bạn đang rất nóng lòng để gỡ. Điều này và điều số một phía trên là hai điều đại kỵ trong trading.

3.                  Nếu bạn may mắn thắng được vài cái trades trong lúc này thì nó càng làm cho bạn hăng máu hơn nữa. Thông thường thì bạn rất ít bao giờ may mắn nhiều lần như thế. Trade kiểu này bạn chỉ có thể gỡ lại được vài % của số tiền đã thua, nhưng chỉ một vài cái trades sau đó thì bạn lại thua hết lại.

4.                  Khi thua, bạn rất nóng lòng gỡ. Bạn nghĩ rằng nếu tôi trade lớn hơn lúc trước thì sẽ gỡ mau

5.                  Song song với sự kiện nóng lòng, bạn còn sợ rằng nếu không trade kịp thì mình có thể trễ “chuyến tàu.” Thành ra bạn còn trade mạnh và nhiều hơn nữa.

6.                  Nếu không trade được thì bạn mất bình tĩnh. Càng mất bình tĩnh thì bạn lại càng muốn trade cho thật mau. Vì trade mau cho nên bạn trade ẩu. Vì trade ẩu cho nên bạn trade thua. Vì trade thua nên càng thêm muốn trade. Nói các khác thì bạn bị xoáy vào một vòng quay điên đảo được điều khiển bởi tình cảm, nhiều hơn là lý trí.

7.                  Ngược lại, nếu bạn không lọt vào tình trạng bên trên thì bạn có thể là loại người trade để tìm cảm giác mạnh. Bạn trade để tìm cảm giác mạnh như những người đi săn hay những kẻ tìm hứng thú trong hiểm nguy.

  Bạn đọc xong bài viết này rồi ngồi xuống xem mình trade vì lý do gì. Sau khi xem xong, có thể nói rằng bạn sẽ thấy rằng mình thuộc về một trong 6 loại người này. Đây là 6 lỗi lầm rất thường xảy ra cho mọi người khi trade. Nhiều người vướng vào đó vẫn không biết tại sao. Một trong những trường hợp account bị cháy là vì phạm một trong 6 lỗi này. Có nhiều người chỉ phạm một hoặc hai. Ngược lại, cũng có nhiều người phạm hết sáu lỗi trên. Phạm lỗi trong trading là một chuyện đương nhiên. Tuy nhiên, điểm khác biệt của một người trade thành công trong thương trường và người thường thua lỗ khi trade là cách khắc phục những lỗi lầm này.

 

                         Phương cách sửa đổi những lỗi lầm này

 

1.  Giữ tâm thần cho thật yên tịnh trước khi trade: Tâm thần yên tịnh ở đây có nhiều nghĩa. Yên tịnh ở đây không có nghĩa là bạn vừa cãi lộn trước khi trade nên tâm thần còn đang trong trạng thái giận hờn. Yên tịnh ở đây có nghĩa là bạn biết mình làm gì trong market hiện tại. Bạn hãy có một kế hoạch cho từng giai đoạn của thị trường. Thị trường có nhiều giai đoạn. Lúc lên, lúc xuống. Có một kế hoạch cho lúc lên cũng không kém phần quan trọng cho một kế hoạch khi nó xuống. Có kế hoạch khi nó lên cho phép bạn tối ưu hóa lợi nhuận. Kế hoạch khi thị trường xuống giúp bạn giảm thiệt hại tối đa. Một người surfer nhà nghề so sánh financial market và sự giao động của biển nghe rất chính xác. Anh ta nói rằng khi ra biển surf mà gặp cơn sóng lớn. Nếu anh ta bình tĩnh thì anh ta sẽ có từ 45 đến 60 giây để thở và để phản ứng. Ngược lại, nếu anh ta hoảng sợ, bối rối thì anh ta chỉ có từ 5 đến 7 giây để sống còn. Trong financial market cũng thế. Người có kế hoạch cho mọi hoàn cảnh thường có nhiều xác suất sống còn so với người vào đó với vỏn vẹn hai chữ HY VỌNG thật to.

 

2.  Hãy phân tích từng cái trade một: Hãy hỏi bạn các câu hỏi sau đây:

  Tại sao tôi CẦN trade cái này?

  Xác suất thành công của tôi trong này cao lắm không?

  Biết đâu rằng sau cái này sẽ có cái khác tốt hơn thì sao?

  Các câu hỏi này dùng để đánh vào tâm thức bạn để cho bạn có một khoảng thời gian suy nghĩ. Hy vọng rằng trong khoảng thời gian dùng để trả lời câu hỏi này, bạn kịp nhận thức rằng bạn không cần phải trade cái này. Nói cách khác rằng cái trade này tuy có tốt, nhưng chưa tốt đủ để bạn phải trade liền. Đây là một điều khá sâu sắc mà người mới học trade khó nhận thức được. Traders gọi nó là TRADE SELECTION. Trade selection là một cách thức dùng để gạn lọc và để giữ cho người traders đừng overtrade. Người mới học trade thường quan niệm rằng nếu cái trade đó tốt thì mình PHẢI trade liền. Vì họ chỉ nghĩ đến cái thắng mà thôi. Họ quên rằng cái thắng mà họ đang nghĩ đến trong cái trade này có một xác suất thành công khá thấp. Ngược lại, nếu họ chịu khó dùng các câu hỏi phía trên để thật sự hỏi chính bản thân mình rằng cái trade ấy có thật sự đáng trade hay không thì có thể nói rằng hơn 80% của những cái gì mà người ta thấy NGAY LÚC đầu, và tự cho là tốt, là đáng trade…..thật ra chỉ là một loại trades với một xác suất thành công khá thấp.

 

3.  Hãy tạo cho mình một chương trình mà mình phải bắt buộc làm theo đó hằng ngày:

  Từ lâu rồi các nhà khoa học gia đều biết rằng con người là một động vật thích làm theo thói quen (creature of habit). Nếu người trader muốn thành công thì phải bắt buộc bản thân mình làm một số công việc hàng ngày. Công việc ở đây không có nghĩa là các công việc không dính líu gì đến trading. Công việc ở đây có nghĩa là các hành động gì cần làm để nâng cao khả năng thành công của mình trong trading. Thí dụ như đọc các bài research hay ngồi xuống dò tin tức v…v…..Những việc này nói nghe thì rất dễ nhưng trên thật tế không mấy ai làm hằng ngày. Người trade dựa vào sự phân tích thường rất ít khi trade ẩu. Lý do là họ đã bỏ quá nhiều công lao vào việc phân tích. Họ không còn bị tâm thần chi phối nhiều khi nhìn giá lên xuống, hay giao động hằng ngày. Mỗi một cái trade sẽ trở thành một sự chọn lựa khá kỹ càng. Khi việc làm nào được cân nhắc một cách kỹ lưỡng thì xác suất thành công sẽ cao. Bạn có biết rằng 80% của tât cả các trades mà chúng ta trade hằng năm đều không đáng để trade không?

  Hãy nghe nhà toán học Aristotle nhận định về con người: “We are what we repeatedly do. Therefore, excellence is not an act, but a habit.” Tạm dịch rằng: “Chúng ta thường làm theo thói quen. Cho nên, tuyệt diệu không phải là một hành động, mà là một thói quen.”

 

4.  Bình tĩnh  - đợi cơ hội thuận tiện nhất.

  Đây là một chân lý hay nhất trong trading. Nếu bạn không học được điều gì tại đây thì chỉ nên nhớ điều này. Người Mỹ thường ví von rằng: There are a lot more fishes in the sea.

Nghĩa là nếu hôm nay không trade được (bad trade selection) thì hãy đợi vì “cá vẫn còn mà.” Người VN thì có câu: Non xanh còn đó lo gì thiếu củi đun.” Cả hai câu đều là chân lý, nói lên cái đức tánh tối cần thiết trong trading. Đó là: Kiên Nhẫn.

 

5.  Hãy giữ nhật ký trading:

Trong đó, bạn viết lại những suy nghĩ riêng của mình về từng cái trade một. Cố gắng trả lời từng câu hỏi. Chẳng hạn như: Tại sao tôi trade, tôi vô ở giá nào, và tôi ra ở giá nào.

Những câu hỏi mà bề mặt xem rất thường, rất hiển nhiên; nhưng khi được đào sâu thì sẽ thấy tâm tư của mình trong đó. Mình sẽ thấy lại mình, thấy lại từng hành động, từ lối suy nghĩ, hay thấy rõ lại cái dở của mình. Để rồi từ đó mỗi khi mình muốn trade thì tự nhiên nhớ lại lỗi xưa. Rồi cứ thế mà tự sửa cho đến khi số lỗi giảm dần, và kinh nghiệm từ đó lại tăng lên. Tiền trong account cũng vì thế mà tăng dần. Trading, nói một cách ngắn gọn, chỉ có bao nhiêu đó thôi.

  Hãy nhớ rằng trading là một quá trình. Nó cần thời gian để trau chuốt. Không thể làm xong trong vòng một sớm một chiều được. Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc cũng đâu có xây được trong vòng một ngày.

 

6.  Tự thưởng mình khi bạn trade đúng phương pháp do mình đặt ra.

  Lời nói nghe có vẻ khôi hài. Nhưng con người thường thích được khen ngợi. Cho dù người khen mình chính lại là mình. Khi được khen, thói thường người ta vẫn thích. Cho nên con người tự cố gắng để làm đúng, và để được khen. Cái này giúp cho cá nhân đừng làm sai những gì đã học được từ những nhận thức của nhật ký trading.

  Cuối cùng thì bạn hãy nhớ câu này: Trading thì đơn giản lắm, nhưng không có dễ. Điều khó nhất trong trading là phải tuân theo một số luật đơn giản với một kỷ luật sắt đá.

 

***


 

Comments

Popular posts from this blog

Viet Currency - Phan 12

  Với strong MACD cross-over như thế này, và hàng loạt các tín hiệu support mạnh như hiện tại, thì xác suất vnindex quay đầu có còn cao nữa không?      Trước hết, thị trường trong hai ngày vừa qua nhẩy gần 7%. Trong đây bao nhiêu bác mua kịp?  Câu trả lời là KHÔNG. Không có bác nào trong đây mua kịp được bao nhiêu, đúng không? Các bác chưa mua kịp thì người khác cũng thế thôi. Nếu có thì chỉ có những người tried to catch a falling knife mua lúc TRƯỚC khi thị trường nhảy. Mua kiểu hên xui. Họ là người đang có lời nhiều vào giờ này. Tuy nhiên, phần lớn bà con còn chưa tỉnh giấc mộng 20% correction. Cho nên một mai họ tỉnh lại. Ho sẽ giật mình mà ùn ùn chạy đi mua. Họ giật mình khi thấy quay qua quay lại market về gần lại điểm 1170 rồi. Tuy nhiên, cho dù market có trở về lại 1170 thì phần lớn số tiền đang lổ của họ sẽ giảm không nhiều. Tôi có nói về hiện tượng này rồi. Bởi vậy phía trên tôi có nói, anh em cứ tiếp tục ride nó đi (stay long). Cho đến một ngày gần...

Viet Currency - Phan 22

    5. STOCHASTIC:  Anh VC cho Q hoỉ, nếu nhìn lại năm 2006, 2/8 là đáy, nhưng trong suốt xu hướng giảm giá Momentum giao động thấp nhất là -100. Còn VNI hiện tại, dù chưa giảm nhiều như vậy, nhưng Momentum đã <-100 và đang từ dưới đi lên, điều đó trong PTKT có phản ánh điều gì không?      Momentum nó khác với giá. Nó là sự thay đổi của giá QUA thời gian. Trong một khoảng thời gian nhất định nào đó nếu giá thay đổi nhiều thì momentum sẽ đi xuống và ngược lại. Tôi không xài momentum vì trong giai đoạn này tôi chỉ nhìn trend qua các điểm reactionary points để xác định hướng đi của nó. Khi trend được xác định rồi thì tôi mới xài momentum để dò la sức mạnh của nó. Như cái chart của tôi phía trên, nếu giá đi lên khỏi 1155 hay đi xuống điểm thấp nhất của VNI hôm tuần trước thì lúc đó mới lấy momentum ra đo. Vì lúc đó nó sẽ nói cho tôi biết cái break out (trên 1155) và cái break down có thật sự mạnh hay không? Còn bây giờ chỉ số này chỉ trade trong ...

Dich cân kinh

 Hầu hết ai cũng biết tập thể dục hàng ngày độ 30 phút sẽ giúp gia tăng sức khoẻ và ngăn ngừa được nhiều bệnh tật. Vậy mà tôi đã không làm cho đến khi chỉ số đường huyết của tôi (A1C) bắt đầu lên hơi cao. Nếu bạn chưa bao giờ tập thể dục, rất nên bắt đầu với độ 10 phút tập Dịch Cân Kinh mỗi ngày. Môn tập nầy tương đối nhẹ nhàng, nhưng rất có hiệu nghiệm. Nếu bạn đang tập thể dục hàng ngày, nhưng không tập DCK, rất nên ghép thêm độ 10 phút Dịch Cân Kinh vào chương trình tập luyện của bạn. Có rất nhiều người viết về Dịch Cân Kinh đăng tràn lan trên mạng. Nhưng tôi may mắn tìm được bài viết của tác giả LS Huỳnh Bửu Khương. Bài viết rất dễ hiểu, và kể lại kinh nghiệm của việc tập Dịch Cân Kinh đã giúp anh sống sót rất mạnh khỏe trong thời gian phải đi lao động khổ sai và thiếu ăn trong các trại học tập cải tạo sau năm 75 trên miền núi Hoàng Liên Sơn ngoài Bắc. (TH) #dichcankinh #taptheduc #chiasekinhnghiem       *********************** Kinh Nghiệm Luyện Tập Đạt...