. Chỉ báo về giao động (Volatility Indicators)
• Average True Range
• Bollinger Bands
• Commodity Channel Index
• Moving Average (Variable)
• ODDS Probability Cones
• Relative Volatility Index
• Standard Deviation
• Standard Error Bands
• Volatility, Chalkin's
2. Chỉ báo về xung lượng (Momentum Indicators)
• Accumulation Swing Index
• Chande Momentum Oscillator
• Commodity Channel Index
• Dynamic Momentum Index
• Intraday Momentum Index
• Linear Regression Slope
• MACD
• Mass Index
• Momentum Indicator
• Price Oscillator
• Price Rate-Of-Change
• Random Walk Index
• Range Indicator
• Relative Momentum Index
• Relative Strength Index(RSI)
• Stochastic Momentum Index
• Stochastic Oscillator
• Swing Index
• Trix
• Ultimate Oscillator
• Williams' %R
• Williams' Accumulation-Distribution
3. Chỉ báo theo chu kỳ (Cycle Indicators)
• Cycle Lines
• Detrended Price Oscillator
• Fibonacci
• Fourier Transform
• MESA Sine Wave Indicator
4. Chỉ báo cường độ thị trường (Market Strength Indicators)
• Accumulation-Distribution
• Chaikin Money Flow
• Chaikin A/D Oscillator
• Demand Index
• Ease of Movement
• Herrick Payoff Index
• Klingler Oscillator
• Money Flow Index
• Moving Average (Volume Adjusted)
• Negative Volume Index
• On Balance Volume
• Open Interest
• Positive Volume Index
• Price Volume Trend
• Trade Volume Index
• Volume
• Volume Oscillator
• Volume Rate-Of-Change
5. Chỉ báo mức hỗ trợ và kháng cự (Support and Resistance
Indicators)
• Andrew's Pitchfork
• Envelope
• Fibonacci Arcs, Fans, Retracements
• Gann Lines, Fans, Grids
• Ichimoku Kinko Hyo
• Projection Bands
• Projection Oscillator
• Quadrant Lines
• Speed Resistance Lines
• Tirone Levels
• Trendlines
6. Chỉ báo về xu hướng (Trend Indicators)
• Aroon
• Commodity Selection Index
• DEMA
• Directional Movement
• Forecast Oscillator
• Linear Regression Indicator
• Linear Regression Slope
• Linear Regression Trendline
• MACD
• Moving Averages (all methods)
• Parabolic SAR
• Performance
• Polarized Fractal Efficiency
• Price Oscillator
• Qstick Indicator
• r-squared
• Raff Regression Channel
• Standard Deviation Channel
• Standard Error
• Standard Error Bands
• Standard Error Channel
• TEMA
• Time Series Forecast
• Vertical Horizontal Filter
Originally Posted by VietCurrency
Một trading signal phải có ÍT NHẤT
là 3 điều
• Formation
• Momentum
• Market Sentiment
thì xác xuất thành công mới cao. Khi
nào đủ 3 yếu tố đó thì mới xuất chiêu. Ra chiêu sớm khi chưa đủ công lực
(3 yếu tố chính phía trên) thì không mà dứt điểm đối thủ lắm. Trong các
derivative markets như Vàng, Oil, Currency toàn là cao thủ của TA nằm trong
đó. Nếu bác thấy được cái này thì họ cũng ĐÃ THẤY rồi. Cho nên không dể ăn
như bên stocks đâu. Sự thắng thua trong các markets này thường xuất phát
từ lý do thứ 3: MARKET SENTIMENT. Chứ không phải từ charts. Đó là tại sao
phần lớn traders thua trong derivative markets. Lý do thứ 3 đòi hỏi một sự
phân tích xuyên market để thấy the real $ đang, hay có thể, sẽ làm gì.
Originally Posted by VietCurrency
Giá trên thị trường là 2-dimensional
object. Đó là tại sao trên chart có hai cột X & Y. Tại vì giá gồm có
thời gian. Take a first derivative of price (theo toán học) sẽ là
momentum. Hay nói chính xác hơn thì momentum là RATE OF CHANGE OF PRICE.
Hay chính xác hơn là mỗi ngày qua sự thay đổi của giá có TĂNG so với ngày
hôm trước hay không? Rate of
change là vật SLOW DOWN trước khi
giá thật sự slow down. Trong TA nó có 3 loại phân tích: formation, trend,
momentum. Formations là hình dáng mà bạn phải nhận ra để nhớ. Sau đó là
bạn xài trend indicators để dò hướng đi. Cuối cùng là bạn xác nhận hướng
đi đó với momentum. Momentum là sức mạnh của hướng đi. Đó là 3 điều cơ bản
mà bạn cần biết trước khi phân tích chart. Formation được tăng thêm tín
nhiệm (credibility) khi nó được hai loại indicators trend & momentum
xác định. Thí dụ như bạn thấy một break out mà bạn nghi là a bull trap
thì bạn có thể xài hai loại indicators ở trên mà gạn lọc nó. Nếu gạn lọc
được rồi thì bạn mới quả quyết nó là gì. Bằng không thì bạn rất sẽ khó
biết cho đến khi nó xảy ra.
Originally Posted by Stockchart
Momentum Oscillators
Many
leading indicators come in the form of momentum oscillators. Generally
speaking, momentum measures the rate-of-change of a security's price. As
the price of a security rises, price momentum increases. The faster the
security rises (the greater the periodover-period price change), the larger the
increase in momentum. Once this rise begins to slow, momentum will also
slow. As a security begins to trade flat, momentum starts to actually
decline from previous high levels. However, declining momentum in the face
of sideways trading is not always a bearish signal. It simply means that
momentum is returning to a more median level.
Học kiến thức căn bản thì nên bắt đầu từ
đâu vậy anh VC?
Học “market sentiment” thật khó, cách học hiện
tại của chucuoi như sau: đọc tài liệu về kinh tế vi mô, vĩ mô, tài liệu
căn bản về thị trường tài chính- tiền tệ, tài liệu định nghĩa, tầm quan
trọng của các chỉ số kinh tế ( giống như bài viết về ISM của anh VC hôm
qua), hàng ngày đọc bản tin, phân tích của người khác, rồi sau này bắt
chước viết giống như vậy, chỉ có điều toàn xài đồ free nên không biết chất
lượng tốt không, nhưng với trình độ của mình thì thấy vậy là tốt rồi. Cách
học như vậy còn thiếu sót gì không nhỉ? Các bác có đề nghị cái khác tốt
hơn không?
VC: Chú hỏi tôi thì tôi biết hỏi ai bi giờ. Mấy
cái này nó nằm hết trong đầu tôi từ lúc nào không biết. Hồi đó tôi có nói
với chú một lần rồi. Đó là kinh nghiệm nó tích lũy từ nhiều năm qua. Tôi
có thể liên kết các câu chuyện tài chánh từ thị trường này sang thị
trường khác, hay có thể pick up một tin nào đó nhìn nó dưới một dạng khác.
Và dùng information đó để trade. Tôi phân tích VN market cũng bằng cái này
mà thôi. Chú cũng thấy. Tôi đâu có biết gì về VN, chứ đừng nói là VN
market. Nhưng thị trường nào nó cũng có cái nét hao hao giống nhau, cho dù
đó là một thị trường mới như VN hay là một mature market như USA. Vì
market là một kết quả của một đám đông cấu tạo thành. Con người ở đâu cũng
thế thôi. Có nghĩa là cũng có những lúc yếu mềm như nhau. Tham &
Sợ đều giống nhau hết.
Market Sentiment rất
khó: Đúng rồi. Vì đây là bước chót của quá trình phân tích dử kiện. Đó là
INSIGHT OBSERVATION mà. Chú cũng rất thông minh đấy. Một năm về trước
tôi mới gặp chú. Chú còn rất ngáo trong trading. Một năm sau chú lò tò đi
học market sentiment rồi. Chiêu này rất khó học vì nó đòi hỏi sự liên kết
các dử kiện lại với nhau và tìm ra ý nghĩa. Khi hiểu ý nghĩa đó rồi thì
mới biết nên làm gì. Wall Street có câu: INFORMATION IS FREE; KNOWLEDGE IS
PRICELESS. Đừng lầm lẫn information và knowledge. Bước chót của trading là
transform information lượm được sang trading signals. No...Unwinding
không phải là trade ngược. Trong tiếng Anh, prefix UN có nghĩa là
làm ngược lại hay là không. Unwinding là một tiếng lóng trong trading nói
lên một trạng thái tháo gở những gì đã có. Giống như bác đang xây cái nhà
(carry trade). Bây giờ bác tháo gở nó ra (unwinding). Traders là một thế
giới nhỏ thu gọn. Họ đẻ ra nhiều danh từ thoáng qua thì rất vô nghĩa, nhưng nó
lên đầy đủ cảm tính của việc làm. Trong trường hợp này unwinding cũng
giống như là một hành động CLOSING OUT A POSITION.
Còn trade ngược
thì có nghĩa là đi ngược hướng. Nó mang nhiều tính chất OPENING A POSITION
và aggressive nhiều, hơn là chỉ đơn giản closing out những gì mình đã
có. Market sentiment hiện tại nói lên cho bác biết. Nếu bác đã và đang có
carry trade thì bác nên unwind nó thôi, chưa đến mức bác cần trade ngược
đâu. Bác cho tôi hỏi nè. Nếu NFP mà thấp như thế thì viễn ảnh một phân lời
được cắt sẻ tăng rất cao. In fact, cách đây chừng 1 tuần xác xuất của một
Fed cut 50 bpts hầu như rất nhỏ. Nhưng sau khi chỉ số này ra thì nó vọt
lên rất cao. Nếu sự lên xuống của USD tùy thuộc vào phân lời, và tương lai
là một lower rate, thế thì hôm nay tại sao USD lại lên cao?
NFP gồm có 3 chỉ số chính:
· Unemployment rate
· Hourly wage
Cả 3 con số này đều quan trọng. Nhưng
tùy lúc mà 1 trong 3 con đó lại quan trọng hơn 2 con kia. Một NFP ra mà
được xem là "bình thường" thì cả 3 con phải đúng như
market nhận. Nếu trật là market sẽ giao động. Traders luôn xem 3 con này
riêng rẻ. Tại vì mỗi con số nó nói lên một khía cạnh khác của sự kiện. Stock traders thường xem con số
đầu (employment number). Tại vì stock market là một bộ phận của kinh tế.
Khi số người có việc làm tăng hay giảm nó ảnh hưởng trực tiếp vào nguồn
máy này. Bond market và các thị trường derivative khác thì coi trong 2 con
số còn lại. Lý do là căn bản của các thị trường này là hedging. Hedging là
đồng nghĩa với cost (chi phí). Và chi phí tăng giảm thường phụ thuộc vào
rate. Rate đây có nghĩa là market rate, vì market rate rất nhạy cảm với
market expectation. Market expecation thì được dựa vào sự phân tích trước
và sau khi chỉ số kinh tế được công bố.
Ngày hôm qua: Friday Jan 4th, 2008
Trong 3 chỉ số đó, ngày hôm qua traders coi trọng chỉ số
UNEMPLOYMENT RATE nhiều nhất. Trong kinh tế học thì người ta dạy rằng một
optimal economy thường là 7% unemployment. Lý do mà anh không muốn 0%
unemployment vì anh cần một co giản của số lượng người đi làm để nó đừng
tạo áp lực trên tiền lương. Nếu không có ai thất nghiệp thì khi cần thêm
người, anh phải tăng lương thì người ta mới chịu làm cho anh. Cái tăng
lương này làm lạm phát tăng. Ngược lại, nếu con số % unemployed nhiều
quá thì kinh tế không được xem là efficient. Trong kinh tế Hoa Kỳ, con số
magical employment là 5%. Phần lớn của năm 2007 đến giờ con số
unemployment rate của US là khoảng < 5%. Hôm qua khi con số job number
ra thấp quá cộng thêm một unemployement rate cao hơn dự định thì currency
traders lại phản ứng vì con số này. Lý do mà họ xài con số này là vì con số
này rất ít giao động so với con số employment number. Nếu anh trade lâu thì anh
sẽ thấy rằng con số employemnt thường được sửa lại vào tháng sau. Lý do là
lúc nó được công bố, đó chỉ là một con số chung chung thôi. Con số đó chưa
là con số chính xác và final. Vào cuối tháng sau khi có một con số mới thì
người ta revise nó lại. Ngược lại con số employment rate thì tương đối ổn
định hơn.
Economic
· Nonfarm Payrolls Dec/08:00 AM 18K
vs 115K
· Unemployment Rate Dec/08:00 AM 5.0%
4.7%
· Hourly Earnings Dec/08:00 AM 0.4%
0.4%
Market đã từ lâu có dấu hỏi lớn về ảnh hưởng
của cái subprime mortgage trong kinh tế Hoa Kỳ. Nếu anh còn nhớ rằng từ
tháng 8 năm ngoái khi subprime mortgage bùng nổ, market đã nhiều lần muốn
the FED cut rate liền, và cut nhiều. Nhưng the FED lại chậm chạp trong
việc cut rate. Bernanke còn cut discount rate v.v..v thay vì cut Fed fund
rate. Kinh tế Hoa Kỳ hơn 70% được liệt kê vào hàng service economy.
Service economy lên xuống tùy theo khả năng tiêu xài của người dân. Và khả
năng tiêu xài của người Mỹ trong mấy năm qua tùy thuộc vào giá nhà của họ.
Khi giá nhà xuống thì khả năng này cũng giảm đi. Lực cầu trong một service
economy mà giảm thì số % thất nghiệp cũng tăng. Traders trong khoảng thời
gian vừa qua chỉ ước lượng một SLOW DOWN trong kinh tế, chứ không ai nói
về một RECESSION. Hôm thứ 4 chỉ số ISM ra quá tệ. Hôm nay môt
% unemployment ra khác cao. Nó ở ngay ngưỡng cửa của một recession theo
đúng định nghĩa. Đó là tại sao market có phản ứng rất mạnh như thế, chứ
không phải chỉ vì con số employment number 18k so với con số dự đoán là
115K. Tôi có thể bảo đảm với anh rằng con số 18K này không có chính xác.
Nó cao hơn 18K. Nhưng cao hơn bao nhiêu thì tôi không biết. Anh phải đợi
tháng sau khi con số revision ra mới biết.
Tai sao USD không rớt?
Trong năm 2007, hai đồng tiền yếu nhất của thế
giới là USD & JPY. Lý do mà nó yếu là vì carry trade. Lý do mà traders
xài carry trade là: rate differentials & low risk. Rate differentials
thì anh biết rỏ. Cái còn lại là risk. Risk ở đây là market risk và thường được đo
qua con số beta, hay còn gọi là volatility. Financial markets của thế giới, nói
chung, trong năm 2007 không có risk nhiều. Chỉ trừ lúc gần cuối năm khi
subprime của Mỹ bùng nổ. Tuy gọi là một rối rắm (mess) trong financial
market, nhưng chưa có một scandal nào có thể gây nguy hại đến nền tài
chánh thế giới nói chung. Nó không giống như Asian crisis của 98 mà kết
quả là một Long Capital Management hedge fund blow up. The Fed học được
bài học củ nên họ rất nhiệt tình. Đó là tại sao chỉ vài tuần sóng gió thì
carry trade lại được tiếp tục. Nhưng đó là dĩ vãng. Thời gian đó người ta
còn chờ đợi một kết quả của cái subprime mortgage. Người ta chưa đo lường
được hậu quả của nó trong kinh tế. Sau bữa thứ 6 thì khác. Người ta thấy
được, hay ít gì cũng có một tiên đoán. Con số 18K vs. 115K dự đoán của
employment number là một con số sai biệt quá lớn. Cộng thêm vào đó là cái
% unemployment mà tôi nói phía trên. Carry trade thường chỉ hoạt động
trong một môi trường low risk. Tại sao? Tại vì khi anh trade trên rate
differentials, anh đang make a DIRECTIONAL BET về hướng đi của phân lời.
Cái directional bet đó cần phải hedge. Phần lớn các big currency trading firms
không chơi spot. Họ chơi forward để giảm tối đa cái cost. Forward
contracts là một illiquid market so với spot. Forward market chỉ liquid
khi không có sóng gió. Directional bet trading đòi hỏi hedging. Hegding
thì đi chung với chi phí. Giá tiền của hedge sẽ tăng khi risk tăng. Hedge
là danh từ nhà nghề cho chữ INSURANCE. Bảo hiểm thường tăng khi thị trường
giao động mạnh. Thị trường giao động mạnh khi có những dữ kiện nằm ngoài
sự ước lượng của nó. Đó là tại sao US equity market xuống ầm ầm mấy hôm
nay. Bên Japan thì the Nikkei rớt xuống khoảng 600 pts trong một ngày. Dựa
vào đó, traders thấy rằng world financial market đã hết còn yên lặng như
xưa cho nên họ bắt đầu unwind những carry trades của 2007. Thêm vào đấy là
bây giờ là 2008. Nếu unwinding carry trade thì có thể hoãn thuế cho đến
2009. Đây là thời điểm tốt nhất để cash out trên phiên diện trading và thuế.
Vì thế anh đừng ngạc nhiên khi thấy USD không rớt nhiều như người ta tưởng
cho dù chỉ số NFP rất là tệ.
Vài lời chia sẻ...
PS: Ở đây không có trúng trật đâu chú. Chỉ chia
sẻ thôi. Chú chia sẻ trong khả năng của chút là tốt nhất đó. Trình độ mỗi
người mỗi khác mà. Miễn sau một năm trước và một năm sau có nhiều tiến bộ
là khá rồi. Bi giờ tôi chia sẻ với chú. Sau này tôi bận việc, chú sẽ lên
đây nắm chức head trader cho currency của site mà chia sẻ lại.
Khởi đầu của năm 2007,
nó đi lên một chút, rồi consolidated chừng vài tháng. Sau đó là break out
on the upside. Gold không oscillate như một cycle để giải thích lập luận
"mùa lể cưới." Thật ra, một phần lớn của sự kiện gold lên là vì
USD xuống. Nhưng đó chỉ là mặt trái của vấn đề. Sự kiện chính là sự phát
triển kinh tế của thế giới nói chung. Economic expansion mới là lý do làm
cho gold lên giá. Dĩ nhiên, một phần lớn giá cả hiện tại của gold cũng
là do mấy chú speculators. Gold lên vì kinh tế phát triển là vì gold là
một vật DẪN ĐIỆN số một trên thế giới on a large scale. Các khoán sản của
thế giới, gold là số 1. Chính vì thế nếu các bác có biết chút ít về
satellites thì các bác sẽ thấy rằng phần lớn satellites đều màu vàng. Vàng
là vì satelites được bọc bằng vàng để dẫn điện. Trong các món hàng điện
tử, vàng được làm một lớp vỏ bề ngoài để dẫn điện. Đó là một trong những lý
do, nhưng không phải là lý do duy nhất, để làm vàng tăng giá. Mai này khi
kinh tế US có suy thoái và nó kéo theo world economy thì vàng cũng vì thế
mà đi xuống theo. Thêm một điều nữa là vàng không thể nào được chế ra
giống như kim cương. Vàng chỉ có thể đào từ trong đất mà ra. Thành ra số
lượng supply của vàng trên thế giới tùy thuộc vào khả năng tìm kiếm của
nó, chứ không phải là khả năng sáng chế ra nó.
Chucuoi: Tôi thấy câu nói này đúng và quan trọng nên tôi save lại,
đến một lúc nào đó bác sẽ thấy tôi lại nói câu này cho mọi người, giống
như những nhận xét mà bác hỏi tôi hôm nay. Những vấn đề trên thuộc
loại những thuộc tính cơ bản của các đồng tiền chính, cũng không có nhiều,
tôi liệt kê một số thuộc tính chính mà tôi biết, bác nào biết thêm thì
bổ sung nhé. 8 đồng tiền chính để trade: USD, EUR, GBP, CHF, CAD,
AUD, NZD, JPY mỗi đồng tiền có những đặc tính cơ bản. Trong đó 3 đồng tiền
CAD, AUD, NZD gọi là commodity, vì giá của các đồng tiền này chủ yếu chịu
ảnh hường bởi giá cả của các mặt hàng là thế mạnh kinh tế của quốc gia đó,
ở đây ta chủ yếu bàn về hai mặt hàng chính là: gold, oil. - CAD: Canada là
một nước sản xuất và xuất khẩu dầu lớn thứ 9 trên thế giới va` từ năm 2000
trở đi, Canada đã vượt qua Saudi Arabia để trở thành nước cung cấp dầu
quan trọng nhất của USA. Vì thế, khi giá dầu bắt đầu "bùng nổ"
vào năm 2002, Canada đã thu được nguốn ngoại tệ không nhỏ bằng việc xuất
khẩu dầu qua một số nước lớn như USA, China, Japan... Do đó giá đồng CAD
chịu ảnh hưởng của oil - JPY: Japan là một trong những nước nhập khẩu dầu
lớn nhất trên thế giới và đồng JPY rất "nhạy cảm" với oil price.
Ngoài ra, Japan là nước có lãi suất thấp nhất so với các nước còn lại, nên
giá của JPY cũng chịu ảnh hưởng của họat động carry trade. - AUD:
Australia là một trong số những nước có trữ lượng vàng để khai thác và xuất
khẩu cao nhất thế giới( chỉ đứng sau South Africa ), do đó, ko có gì ngạc
nhiên nếu chúng ta thấy Aussie ( $AUD) và gold luôn có một sự tương đồng
về giá cả. - NZD: AUD/USD và NZD/USD tương đồng đến 90% => Giá Gold
cũng ảnh hưởng đến NZD. Ngoài ra, vì Australia và New Zealand đều là
những nước xuất khẩu hàng hóa, nông sản cao cho nên giá nông sản cũng phần
nào tác động đến $AUD và $NZD.
- EUR: đồng EUR chiếm tý trọng cao nhất trong USD index, nên có thể xem chỉ số
này dự đoán xu hướng giá của EUR. Ngoài ra, đồng EUR và CHF lên xuống
tương đồng nhau khoảng 80%. Trong các nước EUR thì Đức là nước có ảnh
hưởng lớn đến EUR, nên có thể xem các chỉ số kinh tế của Đức để đoán giá
EUR.
- CHF: lên xuống tương đồng với EUR, và cái này anh VC mới
nói, CHF là nơi để tránh bão chính trị.
- GBP: đồng tiền này tôi không biết có thuộc tính đặc trưng gì???
P/s: các con số thống kê trên có thể không chính xác, ví dụ như
CAD có thể là nước xuất khẩu dâu thứ 10, thứ 8, . . . điều đó không quan
trọng lắm, quan trọng là nhận xét sau đó về CAD và oil. Có thể nhiều
bác chưa hiểu ý topic này, đó là topic phân tích thị trường trên quan
điểm của trader, chứ không phải là analyst. Có sự khác biệt giữa hai nhóm
người này khi phân tích thị trường. Trader phân tích để trade họ
không phân tích quá sâu, mà chỉ phân tích tìm xu hướng thị trường trong
ngắn hạn, trung hạn, phân tích đủ để họ có thể make $, phân tích mang tính
chất thực tế, ứng dụng, không quan tâm đến những con số quá cụ thể, không
dùng lý thuyết này, lý thuyết kia để tìm cách giải thích. Analyst thì
họ phân tích thị trường sâu hơn, mang tính nghiên cứu, học thuật, dùng các
lý thuyết kinh tế để phân tích và giải thích, nên họ cần số liệu cụ thể và
chính xác.
Tôi lấy một vài ví dụ để minh họa:
Quote:
Cho hỏi là con số 5% hay là 7% là con số chuẩn mà mình đem ra để
thấy mức độ của nền kinh tế. Tôi không quan tâm trong lý thuyết kinh
tế họ nói chính xác mấy phần trăm là con số thể hiện nền kinh tế bắt đầu
suy thoái. Tôi chỉ biết con số hiện tại là 5%, và mọi người đang nói rằng
"Since 1949 the unemployment rate has never risen by this magnitude
without the economy being in recession" Tôi không biết và cũng
không có đủ số liệu để thống kê để biết con số kể từ 1949. Hơn nữa tội gì
mình phải làm cho mệt, có người khác làm việc này cho mình rồi thì mình
chỉ cần copy lại thôi.
Tương tự cho câu nói
Quote:
75% thị trường xuất khẩu của Canada là Mỹ
Tôi không có số liệu để thống kê, và tôi cũng không tìm hiểu
kỹ chuyện này làm gì. Tôi chỉ biết Canada xuất khẩu nhiều sang Mỹ, còn con
số 50%, 60%, hay 80% thì không để ý lắm. Nếu bác m2m hỏi tôi
"khối châu Âu họ thường xuất khẩu những mặt hàng chủ yếu nào qua Mỹ
và ngược lại cũng như là nhập khẩu nhiều nhất cái gì?" Tôi sẽ hỏi
lại, vấn đề này có ảnh hưởng gì đến thị trường hiện tại không? Nếu không
thì không cần biết nó làm gì. Nếu có thì trên các trang tin tức, họ sẽ cho
bác con số thống kê cụ thể, vì đó là công việc của họ, trader làm việc
khác rồi.
P/s: Market senstiment là vẫn đề khó, ở trên
diễn đàn, ngoài anh VC ra, hầu như mọi người đều như nhau cả. Có nhiều bác
ngại không lên tiếng vì nghĩ mình không biết vấn đề này, nhưng thật ra tôi
cũng không biết gì nhiều, chỉ là sưu tầm và dịch là chính mà thôi. Trong
topic này, ai cũng pro như ai cả các bác ạ Việc BOE và ECB giữ nguyên lãi
suất nằm trong dự báo của đa số mọi người nên khi quyết định này được công
bố đã không ảnh hưởng nhiều đến thị trường. Sau khi có quyết định về lãi
suất, chủ tịch ECB Ông Trichet đã có bài phát biểu về chính sách tiền tệ
của khu vực Euro, mặc dù giữ nguyên lãi suất nhưng ECB sẵn sàng có
những hành động cứng rắn để chống lại lạm phát. Quan điểm này đã dẹp tan
mối nghi ngờ ECB dự định cắt giảm lãi suất trong 6 tháng đầu năm 2008,
thay vào đó là ECB có thể tăng hoặc giữ nguyên mữc lãi suất 4.0% hiện tại.
Điều này giúp cho đồng EUR tiếp tục tăng điểm so với đồng USD. Sau đó
vài giờ thì chủ tịch FED Ông Bernanke cũng có bài phát biểu về chính sách tiền
tệ của Mỹ, ông nhấn mạnh FED sẽ có những hành động để kích thích nền kinh
tế phát triển. Thị trường cho rằng bài phát biểu của ông ngụ ý FED sẽ cắt
giảm lãi suất 50 điểm vào kỳ họp cuối tháng, đã làm đồng USD xuống giá so
với hầu hết các đồng tiền khác. Thâm hụt cán cân thương mại Mỹ trong tháng
12 cao hơn dự đoán đã làm cho các chỉ số chứng khoán mât điểm vào ngày
cuối tuần. Sự gia tăng thâm hụt thương mại là do tình trạng nhập siêu, cụ
thể dầu tăng giá đã làm tăng giá trị nhập khẩu của Mỹ. Mặc dù đồng USD
yếu, khiến cho hàng hóa Mỹ trở nên rẻ hơn, đã kích thích sự tăng trưởng xuât
khẩu hàng hóa, nhưng sự gia tăng xuất khẩu chỉ là 0.4% đạt $142.3 bln, vẫn
không tăng kịp so với sự gia tăng quá lớn của nhập khẩu là 3.0% đạt $205.4
bln. Đồng GBP đang yếu dần đi do nền kinh tế nước này đang phát triển chậm
lại. Sức mạnh của nền kinh tế Anh trong suốt thập kỷ qua là do sự đóng góp
chủ yếu của kỹ nghệ nhà đất và tài chính, nhưng giờ cả hai kỹ nghệ này
đang trên đà suy thoái. BOE đang quan sát tác động của việc cắt giảm lãi
suất lần trước ảnh hương đến thị trường ra sao, và rất có thể BOE sẽ tiếp
tục cắt giảm lãi suất trong các kỳ họp tiếp theo. Nền kinh tế Canada cũng
đang phát triển chậm do ảnh hưởng của sự suy thoái nền kinh tế Mỹ, và giờ
đây đã có các con số cụ thể về sư suy yếu của Canada: số nhà mới khởi công,
số nhà được phép xây dựng đã giảm mạnh, số việc làm mới được tạo ra
trong tháng 12 cũng giảm mạnh, tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp vẫn giữ nguyên
và bằng với mức dự báo 5.9%, thể hiện thị trường lao động vẫn chưa đến nỗi
quá xấu.
Bài viết của Eximbank
Doanh số bán lẻ của tháng 12 đã giảm hơn so với dự báo của các
chuyên gia, khiến cho nhiều nhà đầu tư băn khoăn liệu kinh tế Mỹ có rơi
vào suy thoái hay không. Chi tiêu cho xe cộ, đồ điện tử, hàng gia dụng,
vật liệu xây dựng, quần áo…tất cả đều giảm, phản ánh mức cầu về hàng hóa
đang có xu hướng giảm sút, cùng với sự tăng trưởng chậm chạp của thị
trường lao động làm cho kinh tế Mỹ trở nên ảm đạm và nếu điều xấu nhất xảy
ra thì điều các nhà đầu tư quan tâm là chuyện gì sẽ xảy đến với đồng USD.
Mặc dù những thông tin kinh tế được công bố không tốt như kì vọng nhưng
đồng USD không hề yếu trong suốt cả phiên giao dịch hôm qua, lý do chính
có thể là các thông tin không tốt đó làm tăng mạnh nhu cầu đầu tư mạo
hiểm, chỉ số Dow giảm 275 điểm đã thúc đẩy nhu cầu thanh toán ồ ạt do các
nhà đầu bán ra cổ phiếu. Hôm qua thì “người khổng lồ” Citigroup đã thông
báo khoản giảm sút số vốn kỉ lục liên quan đến thị trường cho vay thứ cấp
$9.83 tỷ, ngay lập tức Citigroup đã đưa ra một kế hoạch cần một khoản tiền
mặt khoảng $14.5 tỷ thông qua phát hành thêm cổ phiếu, trong số đó thì
$12.5 tỷ được huy động từ những cổ đông chiến lược như cựu giám đốc điều
hành Sanford Weill, Chính phủ Singapore và Kuwait, hoàng tử Arab Saudi
Alwaleed bin Talal. Khoảng tiền mặt này có thể giúp cho Citigroup sống sót
sau cơn khủng hoảng tín dụng và nhà đất. Dù sao thì những con số đó cũng
đã thấp hơn so với dự báo của các nhà đầu tư và Citi group sẽ phải đối mặt
với rất nhiều khó khăn trong thời gian tới. Hầu hết những thành phần kinh
tế tham gia thị trường đều nhận định mức cắt giảm lãi suất của FED sẽ là
50 điểm cơ bản, điều này chỉ có thể giải quyết được vấn đề tăng trưởng
trong ngắn hạn mà thôi, trong dài hạn thì niềm tin của những người đi vay
vẫn còn rất hạn chế. FED cần phải có những hành động quyết liệt nhằm lấy
niềm tin của các nhà đầu tư vào thị trường tài chính và qua đó là tiến tới
bình ổn kinh tế.
JPY
: Những thông tin kinh tế của Mỹ không tốt đã làm cho đồng JPY - vốn rất nhạy
cảm với những thay đổi đến từ bạn hàng lớn nhất của mình - tăng giá cao
nhất so với USD kể từ tháng 6/2005, sau khi các nhà đầu tư thoát khỏi các
khoản đầu tư mạo hiểm, nghĩa là họ phải bán ra các tài sản đó để mua JPY
trả các món vay mà họ đã sử dụng để đầu tư mạo hiểm. Cuối phiên giao dịch thì
JPY được giao dịch ở mức $106.77 sau khi rớt từ mức $106.6. Những lo ngại
về chi tiêu dùng của Mỹ, chiếm đến 2/3 tổng chi tiêu của nền kinh tế lớn
nhất thế giới, đang giam sút và có nguy cơ lan rộng khiến cho các nhà đầu tư
bắt đầu tiến hành xem xét các đồng tiền mạnh khác trong danh mục đầu tư.
Tất cả những rắc rối có liên quan đến khủng hoảng tín dụng và nhà đất của
Mỹ khiến cho những đồng tiền có lãi suất thấp như JPY được quan tâm một
cách triệt để.
CAD: Đồng CAD đã tăng giá sau vài ngày liên tục mất giá so với USD, dược giao
dịch ở trong khoảng $1.0192 đến $1.0135. Nhưng vấn đề thiếu thông tin kinh
tế trong nước vào tuần tới khiến cho các nhà đầu tư không có một dấu hiệu
rõ ràng nào để có chiến lược thích hợp đối với CAD. Sau khi trở thành
hiện tượng trên bản đồ tiền tệ thế giới với những pha bứt phá ngoạn mục
trong năm 2007, thì trong những ngày đầu năm mới này CAD lại có sự khởi
động khá chậm chạp, có dấu hiệu tụt hơi so với những đồng tiền khác. Một
phần là do chính sách kinh tế thắt chặt đối với người láng giềng phía nam
– đang phải vật lộn với những khó khăn không dễ gì giải quyết trong một
sớm một chiều. NHTW Canada cũng đang có những biểu hiện sẽ cắt giảm khoảng
25 điểm cơ bản làm cho lãi suất cơ bản xuống mức 4.00% vào cuộc họp bàn
chính sách tiền tệ vào cuối tháng này. EUR: Vào phiên giao dịch hôm qua
thì EUR đã cố gắng đạt mức $1.4925 nhưng đã không thành công khi chỉ đạt
mức cao nhất là $1.4923. Mức tăng của EUR có thể là do những lời phát biểu
mang tính trấn an dư luận về tình hình kinh tế Mỹ vào cuối tuần trước, ngụ
ý đến một mức cắt giảm cao hơn do với kì vọng là 75 điểm cơ bản. Những
thông tin kinh tế kém thuyết phục của Mỹ được công bố cũng góp phần làm
cho EUR lên giá. Gold Hôm qua giá vàng đã giảm xuống dưới ngưỡng $900/oz
sau khi đã tăng kỉ lục, nguyên nhân có thể là do sự phục hồi của đồng USD
và giá dầu giảm đã thúc đẩy các nhà đầu tư bán vàng ra thu lợi nhuận. Giá
dầu đã giảm mạnh xuống còn $90.98/thùng ngay khi thị trường chứng khoán Mỹ
có phiên giảm giá nữa do những thông tin kinh tế không tốt chút nào của
Citigroup, cùng với mức giảm tương đối bất ngờ của chỉ số tiêu dùng tháng
12. Tất cả những dấu hiệu đó cho thấy sắp sửa có cuộc suy thoái kinh tế,
qua đó làm cho cầu về dầu giảm, hơn nữa dự báo về kho dầu dự trữ của Mỹ đã
tăng lần đầu tiên trong gần 9 tuần qua. Cuối cùng thì các nhà đầu tư cũng
phải nghĩ rằng kinh tế toàn cầu đang tăng trưởng chậm, và xét theo một
khía cạnh nào đó thì điều đó có những tác động tiêu cực đến
vàng. Cuối phiên hôm qua giá vàng giao ngay đã rớt xuống $894.10/oz, thị
trường đã có một vài dấu hiệu bán vàng ra thu lợi nhuận mặc dù số lượng
còn nhỏ. Theo như phân tích kĩ thuật cho thấy xu hướng đánh theo hướng giá
lên đã đến ngưỡng, mặc dù không mạnh cho lắm và xu hướng giá lên vẫn có
khả năng tăng nữa, nhưng thị trường bây giờ rất khó đánh giá độ lớn tiềm
năng của xu hướng lên giá. Trong thời gian vừa qua giá vàng liên tục tăng
giá có thể là do những nguyên nhân như sự kì vọng quá lớn về mức thay đổi
lãi suất cơ bản của Mỹ, tính chất đặc thù của vàng là công cụ đầu tư tài chính
phòng chống rủi ro lạm phát cùng với những bất ổn kinh tế khác trong khi
thị trường tài chính luôn trong trạng thái có thể bị tổn thương bất cứ khi
nào, mặc dù người anh em của nó là dầu lại liên tục giảm giá.
Viet Currency
Source: Inter-Market Analysis
Blog
Comments
Post a Comment